Scholar Hub/Chủ đề/#thời pháp thuộc/
Thời pháp thuộc (hay còn gọi là thời kỳ pháp thuộc) là thời kỳ lịch sử trong lịch sử Việt Nam diễn ra từ năm 1884 đến 1945, khi Việt Nam trở thành một thuộc địa...
Thời pháp thuộc (hay còn gọi là thời kỳ pháp thuộc) là thời kỳ lịch sử trong lịch sử Việt Nam diễn ra từ năm 1884 đến 1945, khi Việt Nam trở thành một thuộc địa thuộc Pháp. Trong thời pháp thuộc, Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm đóng hoàn toàn và trở thành một phần của Đông Dương thuộc Pháp. Thời gian này có những tác động và biến đổi sâu sắc đến nền kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của Việt Nam.
Thời pháp thuộc bắt đầu từ năm 1884, khi Hợp định Patenôtre giữa Pháp và triều đình Nguyễn được ký kết, công nhận Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp. Trong giai đoạn đầu, Pháp dựa vào sự tiếp tay của các quan lại địa phương để thiết lập chính quyền và kiểm soát Việt Nam. Tuy nhiên, sau cuộc khởi nghĩa Yên Thế năm 1885, quân đội Pháp tăng cường sự hiện diện và thực hiện chính sách hiệp định.
Sau đó, qua nhiều giai đoạn, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính trị tại Việt Nam. Họ thiết lập chính quyền Pháp, thành lập trường đại học, các cơ quan quản lý và hệ thống hành chính công. Các chính sách đã được áp đặt như cải cách đất đai, thuế quân sự, công nghiệp hóa, thông giá và hội nhập nền kinh tế vào khu vực Đông Dương. Pháp xây dựng hệ thống giao thông, đường sắt và phát triển các ngành công nghiệp khác nhau để khai thác tài nguyên và lao động của Việt Nam.
Trong thời kỳ này, Việt Nam bị chia thành các khu vực quản lý riêng, bị chia cắt mạnh mẽ dân tộc và tạo ra các chênh lệch xã hội. Nền giáo dục bị ảnh hưởng sâu sắc, với việc giảng dạy bằng tiếng Pháp và tiếng Việt bị giới hạn. Văn hóa Việt Nam cũng trải qua các biến đổi lớn, với sự xuất hiện của văn hóa Pháp. Ngoài ra, cuộc khai thác tài nguyên và lao động đã gây ra những vấn đề xã hội như nghèo đói, thất nghiệp, tỷ lệ di cư và tiêu cực.
Đến cuối thời pháp thuộc, sự kháng cự của người dân Việt Nam ngày càng gia tăng. Sự phản đối và huống chiến trở nên kiên định hơn, dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Pháp và cuối cùng là cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam vào năm 1945.
Trong thời pháp thuộc, chính quyền Pháp tiến hành những chính sách thống trị và khai thác tài nguyên của Việt Nam. Cụ thể, thông qua việc xây dựng hệ thống thuế và lệ phí, Pháp thu đủ nguồn tài chính để duy trì quân đội và hệ thống chính quyền của mình.
Cải cách đất đai là một trong những chính sách quan trọng của thời pháp thuộc. Hệ thống chủ nghĩa đất đai của Việt Nam truyền thống bị Pháp thay đổi, và họ thiết lập hệ thống sở hữu đất đai cá nhân và đất thuộc sở hữu của chính phủ. Những người dân Việt Nam đã bị ép buộc trở thành công nhân nông thôn và thuộc sở hữu nhà máy, trang trại hoặc mỏ khai thác tài nguyên. Người dân bản địa đã mất quyền sử dụng truyền thống và tự do trong việc khai thác đất đai của mình.
Ngoài ra, quân đội Pháp đã tăng cường kiểm soát an ninh và trật tự trong quân khu, và xây dựng hệ thống quan liêu và đặc trách để theo dõi và kiểm soát người dân. Họ lập ra các ngành chính quyền để quản lý các vấn đề xã hội và địa phương, từ việc thu thuế đến quản lý giáo dục và y tế.
Về mặt kinh tế, Pháp đã tạo ra một hệ thống bất công trong việc khai thác tài nguyên Việt Nam. Các sản phẩm chủ lực của Việt Nam như đường mía, cao su, cà phê và thép được khai thác và xuất khẩu theo hướng nhàn rỗi, điều này đã làm gia tăng khoảng cách xã hội và làm gia tăng sự bất công trong kinh tế. Nông dân Việt Nam đã phải chịu những gánh nặng nặng nề, trong khi tài nguyên và công suất lao động của họ đã được sử dụng để phục vụ lợi ích của Pháp.
Trong lĩnh vực giáo dục, Pháp đã thiết lập các trường đại học, trường học và viện nghiên cứu theo mô hình giáo dục Pháp. Tuy nhiên, ngôn ngữ giảng dạy chính trị và giáo dục vẫn là tiếng Pháp, trong khi tiếng Việt bị hạn chế. Điều này đã gây nên sự chia rẽ và mất cơ hội cho nhiều người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, thời pháp thuộc cũng đã khơi nguồn cho sự phản kháng và đấu tranh độc lập của người dân Việt Nam. Các phong trào giải phóng dân tộc và đấu tranh chống Pháp đã xuất hiện, với các lãnh tụ như Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học. Cuối cùng, vào năm 1945, Việt Nam đã giành được độc lập sau cuộc khởi nghĩa tháng Tám và Tổng khởi nghĩa tháng Chín.
Hệ thống giao thông ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1860 – 1945) Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE Quá trình bóc lột thuộc địa của Pháp trong gần 100 năm thống trị đã làm cho nền kinh tế Nam Kỳ có những biến đổi sâu sắc. Để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, Pháp đã xây dựng một hệ thống giao thông đa dạng với những phương tiện hiện đại ở khắp Nam Kỳ, nối các tỉnh Nam Kỳ với các vùng lân cận. Việc đầu tư xây dựng hệ thống giao thông ở Nam Kỳ đã tạo điều kiện thay đổi cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế và đem lại nguồn lợi lớn cho Pháp.
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Calibri","sans-serif";}
#hệ thống giao thông ở Nam Kỳ #thời Pháp thuộc
Đo đạc và quản lý đất đai ở Việt Nam thời Pháp thuộc Bài viết trình bày quá trình hình thành và phát triển của ngành Địa chính gắn liền với sự ra đời của Nha Địa chính Đông Dương và ngành Địa chính, cùng các hoạt động đo đạc, quy chủ, lập sổ và quản lý điền thổ của chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Cho đến những năm 1930, công việc này về cơ bản đã được hoàn thành tại vùng châu thổ Bắc Kỳ và các vùng đồng bằng thuộc Nam Kỳ và Trung Kỳ của đất nước. Tuy tốc độ tiến hành còn chậm và chưa triệt để (công việc đo đạc, quy chủ và quản thủ ruộng đất ở các vùng trung du, miền núi hầu như chưa được thực hiện cho đến cuối thời thuộc địa), nhưng các hoạt động này đã tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác khám đạc, quản lý đất đai, đảm bảo nguồn thuế đất cho nhà nước; đồng thời thúc đẩy quá trình tư hữu hóa và tập trung ruộng đất, tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp Việt Nam dưới thời thuộc địa. Có thể coi những hoạt động này như một cuộc cải cách, một sự thay đổi căn bản trong chế độ quản lý ruộng đất ở Việt Nam so với thời nhà Nguyễn và các giai đoạn lịch sử trước đó. Từ khóa: Đo đạc; quản lý đất đai; Việt Nam; thời Pháp thuộc.
Yếu tố bản địa trong hoa sắt trang trí kiến trúc Hà Nội thời Pháp thuộcHệ thống đồ án hoa sắt trong các thành phần kiến trúc là một trong những thành tố quan trọng góp phần tạo nên diện mạo kiến trúc Hà Nội thời Pháp thuộc. Trong khoảng thời gian không dài từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, hoa sắt với tính chất bền chắc và những mỹ cảm riêng có toát lên từ chất liệu đã song hành cùng sự phát triển các xu hướng kiến trúc tại Hà Nội thời kỳ này, tạo nên một hiện tượng mỹ thuật đặc sắc: thấm đẫm tinh thần truyền thống bản địa trên nền các giá trị phương Tây.
#Decorative ironwork; native aspects; decorative architecture; Hanoi architecture in French domination.
Tri thức, kỹ năng và cách mạng-đóng góp của học sinh trường dạy nghề trong việc hình thành phong trào vô sản ở Việt Nam thời Pháp thuộcNhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò của trí thức Việt Nam kiểu mới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ tay thực dân Pháp. Bài viết này đóng góp thêm vào những nghiên cứu trước đó thông qua tìm hiểu quá trình tham gia hình thành và phát triển đảng Mác-xít của học sinh các trường dạy nghề ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Vào những năm 1920, phong trào yêu nước Việt Nam đã xuất hiện nhân tố mới là sự thâm nhập của chủ nghĩa Cộng sản, sự nổi lên của các trí thức mới và sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân. Quyền lực của trí thức vẫn được duy trì theo truyền thống trọng học vấn của người Việt đã gặp phải sự thách thức từ phía lực lượng công nhân đang hình thành ngày một đông đảo. Theo đường lối cách mạng Mác-xít các trí thức đã tham gia cách mạng bằng cách tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản và thực hiện vô sản hoá. Quá trình này có sự đóng góp của học sinh các trường dạy nghề, kiểu nhà trường mới được hình thành và phát triển ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Những ảnh hưởng của tri thức, kỹ năng, kỷ luật công nghiệp được tiếp thu từ nhà trường đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước được thảo luận trong bài viết.
#Trường dạy nghề Việt Nam thời Pháp thuộc #phong trào Mác-xít #trí thức Việt Nam kiểu mới #giáo dục thực dân
SỰ MỞ RỘNG VÀ TÍNH ĐA NGUYÊN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THỰC DÂN Ở VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘCCuối thế kỷ XIX, sự hình thành và mở rộng của chế độ thực dân tại Đông Dương tạo nên điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng của pháp luật thực dân tại Đông Dương. Một mặt, thực dân Pháp áp đặt sự cai trị và pháp luật lên các cộng đồng dân cư tại Việt Nam. Mặt khác, họ lưu giữ trật tự pháp luật hiện có của nhà nước phong kiến ở Việt Nam. Sự mở rộng của hệ thống pháp luật thuộc địa tại Đông Dương tạo nên đa nguyên, đa dạng trong hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật đa nguyên tạo nên sự phân mảnh và xung đột giữa các hệ thống pháp luật khác nhau. Bài viết nghiên cứu về quá trình mở rộng của pháp luật Pháp tại Việt Nam và tính đa nguyên trong pháp luật dưới thời kỳ Pháp thuộc vào thế kỷ XIX.
#Mở rộng #pháp luật thực dân #đa nguyên pháp luật #Việt Nam #Đông Dương.
Phương pháp đa dư lượng đơn giản và hiệu quả dựa trên QuEChERS để xác định thuốc trừ sâu trong dầu cọ bằng sắc ký lỏng khối phổ thời gian bay Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 184 - Trang 5821-5828 - 2011
Trong nghiên cứu này, một phương pháp đa dư lượng nhanh chóng, cụ thể và nhạy cảm dựa trên thao tác chiết acetonitrile, tiếp theo là làm sạch bằng phương pháp tách pha rắn phân tán (d-SPE) đã được thực hiện và xác thực để xác định dư lượng thuốc trừ sâu đa loại trong dầu cọ lần đầu tiên. Thao tác chiết lỏng-lỏng kết hợp với quy trình kết tủa ở nhiệt độ thấp đã được đánh giá để nghiên cứu hiệu quả làm sạch bằng cách đông lạnh nhằm đạt được tỷ lệ phục hồi cao và lượng chất béo đồng chiết thấp trong mẫu chiết cuối. Đối với bước làm sạch, d-SPE được thực hiện bằng cách kết hợp muối sulfate magiê khan (MgSO4), amine chính thứ cấp, octadecyl (C18) và than đen graphitized. Nghiên cứu phục hồi được thực hiện ở hai mức độ nồng độ (10 và 100 ng g−1), với tỷ lệ phục hồi đạt từ 74.52% đến 97.1% và giá trị độ lệch chuẩn tương đối dưới 10% (n = 6) ngoại trừ diuron. Giới hạn phát hiện và định lượng đều dưới 5 và 9 ng g−1, tương ứng. Ngoài ra, hiệu ứng ma trận mềm (≤±20%) đã được quan sát cho hầu hết các loại thuốc trừ sâu được nghiên cứu ngoại trừ malathion, loại thuốc này cho thấy hiệu ứng ma trận trung bình (20–50%). Phương pháp đề xuất đã được áp dụng thành công trong phân tích các mẫu dầu cọ khả nghi.
#phương pháp đa dư lượng #thuốc trừ sâu #dầu cọ #sắc ký lỏng #khối phổ thời gian bay #QuEChERS
Yếu tố bản địa trong hoa sắt trang trí kiến trúc Hà Nội thời Pháp thuộcHệ thống đồ án hoa sắt trong các thành phần kiến trúc là một trong những thành tố quan trọng góp phần tạo nên diện mạo kiến trúc Hà Nội thời Pháp thuộc. Trong khoảng thời gian không dài từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, hoa sắt với tính chất bền chắc và những mỹ cảm riêng có toát lên từ chất liệu đã song hành cùng sự phát triển các xu hướng kiến trúc tại Hà Nội thời kỳ này, tạo nên một hiện tượng mỹ thuật đặc sắc: thấm đẫm tinh thần truyền thống bản địa trên nền các giá trị phương Tây.
#Decorative ironwork; native aspects; decorative architecture; Hanoi architecture in French domination.
Thủ công nghiệp Việt Nam ở Trung kỳ thời Pháp thuộcThủ công nghiệp ở Việt Nam nói chung, Trung Kỳ nói riêng có truyền thống lâu đời và luôn gắn chặt với canh tác nông nghiệp, đời sống nông thôn. Dưới thời Pháp thuộc, sự xâm nhập của nền thương mại và kinh tế hàng hóa làm cho nghề thủ công có xu hướng phân hóa: một số nghề bị sa sút do chịu sự cạnh tranh từ bên ngoài như bông vải, tơ tằm… một số nghề bị sự kiểm soát của chính quyền là rượu và muối. Tuy có nhiều biến động do chính sách của Pháp nhưng những năm đầu thế kỷ XX, ở Trung Kỳ đã thành công ổn định và phát triển một số nghề thủ công. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu một số nghề thủ công nghiệp tiêu biểu dưới thời Pháp thuộc ở Trung Kỳ. Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra một vài nhận xét về vai trò của thủ công nghiệp đối với đời sống của người dân ở Trung Kỳ dưới thời Pháp thuộc.
#Thủ công nghiệp #Trung Kỳ #Thanh Hóa #Huế #Pháp thuộc
TÌNH HÌNH THƯƠNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA THỜI PHÁP THUỘC (1895 - 1945)Tóm tắt: Thời Pháp thuộc thương nghiệp tỉnh Sơn La phát triển khá chậm chạp. Trên cơ sở nghiên cứu về các vấn đề: hệ thống các tuyến đường buôn bán, cơ cấu hàng hóa, các loại hình chợ và lực lượng tham gia buôn bán, tác giả đưa ra những nhận xét về thương nghiệp ở Sơn La dưới sự cai trị của người Pháp (1895 - 1945).
Từ khóa: Thương nghiệp Sơn La, thời Pháp thuộc, 1895-1945.
Về độ ổn định của phương pháp Galerkin không liên tục không gian-thời gian ALE cho các bài toán khuếch tán- đối lưu phi tuyến trong các miền phụ thuộc thời gian Dịch bởi AI Institute of Mathematics, Czech Academy of Sciences - Tập 60 - Trang 501-526 - 2015
Bài báo này đề cập đến việc phân tích phương pháp Galerkin không liên tục không gian-thời gian (STDGM) áp dụng vào việc giải quyết các bài toán giá trị biên đầu vào - đầu ra phi tuyến khuếch tán-đối lưu không trạng thái trong miền phụ thuộc thời gian được xây dựng dựa trên phương pháp Lagrangian-Euler ngẫu nhiên (ALE). Trong việc xây dựng lược đồ số, chúng tôi sử dụng các phiên bản không đối xứng, đối xứng và không đầy đủ của phân discret hóa không gian cho các hạng mục khuếch tán và hình phạt bên trong cũng như biên. Các hạng mục đối lưu phi tuyến được phân discret hóa với sự trợ giúp của dòng số. Phân discret hóa không gian sử dụng các xấp xỉ đa thức từng đoạn với bậc không lớn hơn p với p là số nguyên thoả mãn p ⩾ 1. Trong phân tích lý thuyết, phân discret hóa thời gian từng đoạn với dạng tuyến tính được sử dụng. Sự chú ý chính được tập trung vào việc điều tra độ ổn định vô điều kiện của phương pháp.
#phương pháp Galerkin không liên tục #phương pháp Lagrangian-Euler ngẫu nhiên #khuếch tán-đối lưu phi tuyến #miền phụ thuộc thời gian #độ ổn định vô điều kiện